Lễ hội chùa Dâu
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Tháng 4 ngày 8 thì về hội Dâu
Dường như, trong tâm thức người dân Bắc Ninh, lễ hội chùa Dâu đóng mộ vai trò quan trọng trong đời sống tín ngưỡng, là nơi người dân gửi gắm niềm tin của mình với các đấng thần linh. Không biết tự bao giờ, những câu thơ trên đã lưu truyền trong dân gian và trở nên vô cùng gần gũi, tự hào đối với những người dân miền quê quan họ.
Tuy nhiên trước khi đạo Phật được truyền vào thì người dân bản địa đã có tín ngưỡng thờ Thần Nước, tức là những vị Thần Nông nghiệp. Câu chuyện nàng Man Nương, cô gái Kẻ Mèn mộ đạo Phật, nằm ngủ quên giữa cửa, sư Khâu Đà La vô tình bước qua mà thụ thai, được giải thích là sự mầu nhiệm của “Thiên Nhân hợp khí”. Thực chất đó là cuộc hôn phối giữa đạo Phật với tín ngưỡng bản địa. Kết quả sau đấy đã sinh ra bé gái, tiền thân của Phật Tứ Pháp (Mây, Mưa, Sấm, Chớp) thờ ở vùng Dâu – Luy Lâu rồi lan tỏa ra nhiều nơi khác. Chính nét độc đáo đó mà chùa Dâu và lễ hội trở thành điểm du lịch Bắc Ninh được nhiều du khách tìm về.
Chùa Dâu còn có tên là Diên Ứng, Pháp Vân hay Cổ Châu, tọa lạc ngay trung tâm của khu di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu và phong phú bậc nhất của quê hương Kinh Bắc. Nơi đây là thủ phủ của quận Giao Chỉ (Giao Châu), trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất của nước ta, bao gồm thành cổ Luy Lâu, đền thờ và Lăng mộ Sỹ Nhiếp, hệ thống chùa tháp, đền đài, cung điện, lầu gác, bến bãi, gốm cổ, phố chợ sầm uất của đô thị Luy lâu,… là chứng tích một thời kỳ dài hàng chục thế kỷ trước và sau Công nguyên.
Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, những tài liệu, cổ vật còn lại ở chùa Dâu, đặc biệt là bản khắc “Cổ Châu Pháp vân Phật bản hạnh”, có niên đại 1752 cùng kết quả nghiên cứu về lịch sử Phật Việt Nam của các nhà sử học và Phật học đã khẳng định “Chùa Dâu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam”, được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử ngày 28/4/1962.
Hội chùa Dâu là lễ hội diễn ra với quy mô rộng lớn của ba xã thuộc vùng Dâu – Luy Lâu (Thuận Thành) là: Thanh Khương, Trí Quả, Hà Mãn với 5 ngôi chùa lớn thờ Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện và chùa Tổ thờ bà Man Nương – mẹ của Tứ Pháp.
Hàng năm, vào ngày 8-4 âm lịch được coi là ngày sinh của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni, nhân dân trong vùng lại nô nức, tưng bừng mở hội chùa Dâu. Ban ngày rước Tứ Pháp về chùa Dâu “công đồng” là hội tụ các yếu tố Mây, Sấm, Chớp, Mưa. Ban đêm rước Tứ Pháp đi “tuần nhiễu” một vòng khép kín từ Đông sang Tây là mô tả chu kỳ quả đất xoay tròn, tạo ra năm tháng, bốn mùa.
Tổng thể 5 chùa cùng mở hội. Lễ hội có lễ rước lớn, đám rước 4 chị em về chùa Tổ bái vọng mẹ. Dâng hương cầu kinh xong, đám rước lần lượt trở về các chùa. Trong lúc rước có các trò múa gậy, cướp nước, múa sư tử, múa hóa trang rùa, múa trống, đấu vật, cờ người, đốt cây bông.
Lễ hội chùa Dâu là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người dân vùng Dâu. Bởi nó không chỉ là nhu cầu tìm về Phật tổ và hòa mình trong hoạt động văn hóa cộng đồng dân gian sôi động và tiêu biểu mà còn với ý nghĩa quan trọng là cầu mong mọi điều tốt lành, cầu cho mưa thuận gió hòa – một ước vọng ngàn đời của cư dân nông nghiệp.
Nhà văn Nguyễn Hữu (làng Đại Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành) là người đầu tư nhiều tâm sức tìm hiểu sâu về nguồn gốc cũng như các nghi thức ở hội chùa Dâu cho biết: Sĩ Nhiếp là người có công truyền dạy chữ cho người dân trong vùng. Vì vậy, hàng năm, đến ngày mồng 8 tháng 4, nhân dân địa phương tổ chức rước kiệu Sĩ Nhiếp và tượng công chúa Ngọc Tiên (con gái Sĩ Nhiếp) từ đền Lũng Khê về chùa Dâu để khai hội nhưng hai kiệu này không rước vào trong chùa mà chỉ đi một vòng trên sân bãi rồi lại rước trở về đền Lũng Khê…
Lễ rước trong hội chùa Dâu rất đặc biệt, mang nhiều nét đẹp văn hóa tiêu biểu, độc đáo. Sáng ngày mồng Tám chính hội, nhân dân các làng tổ chức rước tượng Tứ Pháp từ các chùa làng về tụ hội tại chùa Dâu. Tục truyền, đám rước gồm ngựa thờ, cờ quạt, tàn lọng, kiệu bát cống… từ các ngả kéo về.
Khi tới chùa Dâu thì diễn trò “mẹ đuổi con”. Bốn kiệu Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, mỗi kiệu chạy ba vòng rồi trở về vị trí cũ. Còn kiệu bà Man Nương (kiệu mẹ) được rước vào trong chùa Dâu. Sau đó diễn ra trò cướp nước. Đó là cuộc thi chạy giữa bà Sấm (Pháp Lôi) với bà Mưa (Pháp Vũ). Khi có hiệu lệnh thì kiệu Pháp Lôi và Pháp Vũ đua nhau chạy ra tam quan. Kiệu rước nào đến trước thì sẽ lấy được nước. Người dân xem ai về đích trước để dự báo mùa màng. Nếu bà Mưa thắng thì năm ấy được mùa còn nếu bà Sấm thắng thì năm ấy ruộng đồng lắm sâu bọ, làm ăn trắc trở.
Cuộc thi “cướp nước” chính là nghi lễ đặc sắc, nổi bật nhất ở lễ hội chùa Dâu và luôn được người dân, du khách đón đợi nhiều nhất. Tuy nhiên, khoảng 20 năm nay trở lại đây, hội chùa Dâu không còn tổ chức lễ rước do nhiều nguyên nhân. Phần lễ gồm các hoạt động tín ngưỡng của người dân địa phương như: nghi lễ hạ tòa, phong mũ áo phật, dâng hương, cầu kinh, lễ hồi cung Pháp Vân và Pháp Vũ. Phần hội với hoạt động văn hóa, thể thao sôi nổi như: thi đấu bóng chuyền, cờ tướng, các trò chơi dân gian, hát Quan họ trên thuyền Rồng…
Theo kinh nghiệm du lịch Bắc Ninh, lễ hội chùa Dâu thường khai hội vào thời điểm đầu mùa hè, tiết trời khá nắng nóng, trung tâm lễ hội diễn ra trên đường 282 với nhiều phương tiện giao thông đi lại với lượng du khách về trảy hội sẽ rất đông. Đến đây, du khách sẽ được hòa mình vào không khí lễ hội sôi động, nhiều hoạt động văn hóa dân gian không phải nơi nào cũng có.
Từ xưa, lễ hội chùa Dâu đã trở thành nét đẹp văn hóa đặc trưng của vùng miền, nhằm ôn lại truyền thống lịch sử, phong tục tập quán, đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh cũng như động viên, khích lệ tinh thần nhân dân cùng nhau đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trong cộng đồng dân cư và gìn giữ, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa cộng đồng.
Tags: phuong tien giao thong, diem du lich bac ninh, khach san bac ninh, dac san bac ninh