Tranh Đông Hồ sáng bừng giấy điệp
Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một trong ba dòng tranh dân gian Việt Nam có xuất xứ từ làng Đông Hồ. Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh. Thơ Tú Xương về tranh Đông Hồ ngày Tết có câu:
“Đì đoẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Loẹt lòe trên vách bức tranh gà”
- Chùa Phật tích cổ tự ngàn năm
- Chùa Bút Tháp nét đẹp đậm chất chùa Việt
- Về đền Phù Đổng tham gia lễ hội Thánh Gióng
Theo kinh nghiệm du lịch Bắc Ninh, làng tranh Đông Hồ cách Hà Nội chừng 33km về hướng Đông và nằm sát bờ Nam đê sông Đuống. Làng Hồ hay Đông Hồ là một làng nghề cổ truyền, có tên Nôm là làng Mái nay thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là cái nôi của dòng tranh khắc gỗ dân gian đặc sắc được nhiều người cả trong và ngoài nước biết đến, với những bức tranh từ lâu đã đi vào đời sống tinh thần bao người dân Việt.
Làng Đông Hồ (đôi khi dân địa phương chỉ gọi là làng Hồ) nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu Hồ.
Xuất hiện từ khoảng thế kỷ XVI, tranh Đông Hồ được hình thành bằng phương pháp thủ công, là kết tinh của sự khéo léo và nhẫn nại, cộng với nghệ thuật thẩm mỹ đầy tinh tế… Đây không phải là những bức tranh được vẽ theo cảm hứng nhưng được in lại qua những bản khắc, và để có bản khắc đạt đến độ tinh xảo, đòi hỏi ở người vẽ mẫu cũng như người khắc ván phải có lòng yêu nghệ thuật và trình độ kỹ thuật cao. Tranh Đông Hồ có đến 180 loại được phân thành 5 loại chính gồm tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt và truyện tranh.
Các cụ làng Đông Hồ vẫn truyền lại mấy câu ca rằng:
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề làm tranh.
Ca dao Việt Nam đã có những khắc họa thật sinh động về làng tranh Đông Hồ với hình ảnh một làng quê dung dị nằm nép mình bên dòng sông Đuống hiền hòa, nổi bật với những chuẩn mực đạo đức được cổ súy giữ gìn qua bao đời, đã tạo nên cung cách ứng xử độc đáo của người làng Mái: trọng danh dự, khí tiết, ăn nói lịch lãm, trên dưới thưa gửi rõ ràng và hiếm khi trong làng có người to tiếng chửi mắng nhau…
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát có nghề làm tranh.”
Hàng năm làng Hồ có hội làng vào rằm tháng vào 3 âm lịch. Trong hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng còn có các làn điệu dân ca như:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu
Mua tờ tranh điệp tươi màu
Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiều.
Nội dung của đong tranh Đông Hồ gắn bó và thể hiện sinh động xã hội nông nghiệp Việt cổ truyền, cuộc sống lao động của người nông dân bình dị, chất phác, các phong tục, tập quán và sinh hoạt của người dân Việt
“ Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
So với các dòng tranh khác, tranh dân gian Đông Hồ có tính biểu trưng, trang trí nhưng vẫn giữ được nét mộc mạc, dễ hiểu, gần gũi với đời sống của người dân vùng châu thổ Bắc Bộ, độc đáo trong việc sử dụng đường nét tiết giản và những mảng màu dẹt đều, là màu tự nhiên của cỏ cây, hoa lá, tươi sáng trên nền giấy dó quét điệp óng ánh. Về nội dung, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, vật chất của con người, xã hội theo quan điểm mỹ học dân gian của người dân nơi đây. Đó là những bức tranh khắc hoạ ước mơ ngàn đời của người lao động về cuộc sống gia đình thuận hoà, ấm no, hạnh phúc, về một xã hội công bằng, tốt đẹp. Tranh dân gian Đông Hồ góp phần không nhỏ vào việc lưu giữ những vốn văn hoá truyền thống của dân tộc, làm cho đời sống tinh thần của người Việt Nam thêm phong phú.
Tranh Đông Hồ được in trên giấy Dó, một loại giấy được làm thủ công từ nguyên liệu là cây Dó mọc trên rừng giống như vỏ cây Bạch đàn. Cây Dó đem về cho vào cối giã nhỏ, rây thành bột mịn, sau đó dùng bột này chế biến thành giấy Dó. Do trên nền giấy thường được quét bằng một lớp hồ hoặc nhựa thông có pha loại bột từ vỏ sò Điệp giã nhỏ tạo màu sáng lấp lánh nên còn được gọi là giấy Điệp.
Người làng Hồ đã biết vận dụng, chắt lọc từ những chất liệu thiên nhiên để tạo nên những sắc màu truyền thống vừa tươi vừa có độ bền màu, như màu xanh da trời được chiết suất từ gỉ đồng; màu chàm được chiết suất từ lá cây Chàm ở Lạng Sơn; màu đỏ thắm từ vỏ cây Vang; màu đỏ son từ đá sỏi khai thác trên núi; màu vàng từ hoa Hòe hay rơm nếp; màu đen từ tro Xoan hay tro lá cây Tre; màu trắng ngà óng ánh sáng điệp là do bởi chất điệp được chế biến từ vỏ ốc hay vỏ sò của vùng biển Quảng Ninh… Đây là những màu cơ bản, không pha trộn và mỗi màu tương ứng với một bản khắc gỗ nên thường tranh Đông Hồ chỉ giới hạn ở bốn màu.
Riêng đề tài được lấy từ chính đời sống, sinh hoạt sản xuất hay xuất phát từ triết lý phồn thực, tuy dung dị nhưng cũng rất gần gũi với sinh hoạt đời thường. Từ những nhân vật trong truyền thuyết hay trong tích truyện, những cảnh đẹp của non sông đất nước, đến những bức tranh mang ý nghĩa cầu chúc, những sinh hoạt đời thường như “Vinh hoa phú qúy”, “Hái dừa”, “Đánh ghen”, “Mục đồng thổi sáo”, “Đám cưới chuột”…, tất cả đều hàm chứa những triết lý nhân văn sâu sắc.
Không áp dụng các nguyên tắc về ánh sáng hay luật cận – viễn của tranh đương đại với bố cục chặt chẽ về cơ thể học, các nghệ sĩ sáng tác tranh dân gian chỉ bằng lối vẽ đơn tuyến bình đồ đã tạo nên dòng tranh Đông Hồ mang nhiều tính ước lệ cả trong miêu tả lẫn trong bố cục, đã đưa người xem tranh lạc vào thế giới của những nét vẽ ngây ngô, đơn giản nhưng cũng rất thú vị. Đặc biệt trên mỗi bức tranh, bao giờ nghệ nhân cũng đề một vài chữ Hán hoặc chữ Nôm (ngày xưa) hay câu thơ lãng mạn, tình tứ (ngày nay) càng khiến cho tranh thêm đậm đà ý vị…
Đông Hồ có chợ tranh tấp nập vào tháng Chạp với năm phiên chợ vào các ngày 6, 11, 16, 21, 26. Mới tờ mờ sáng dòng người khắp nơi đã đổ về làng Hồ nhộn nhịp như trẩy hội. Có nhiều người đến để mua bán tranh nhưng cũng không ít người đến chỉ để thỏa trí tò mò hay muốn thưởng lãm tranh Đông Hồ. Nhiều người không quản ngại đường xa đã lặn lội về đây với tâm niệm ngày Tết có một vài bức tranh Đông Hồ treo trong nhà thì coi như năm đó gia đình sẽ yên ấm, gặp nhiều may mắn, làm ăn sung túc…
Những người con làng Hồ đi đâu cũng nhớ đến câu ca dao:
“Dù ai buôn bán trăm nghề,
Nhớ đến tháng Chạp thì về buôn tranh”.
Mỗi năm đã có hàng vạn bức tranh được bán ra, sau phiên chợ tranh cuối cùng, những gia đình nào còn lại tranh đều bọc kín đem cất chờ đến mùa tranh năm sau lại đem ra chợ tranh bán. Tranh làng Hồ đã được nhiều người coi như đặc sản của xứ Kinh Bắc. Không chỉ có người Hà Nội và dân một số tỉnh thành trong nước sành điệu, yêu thích tranh Tết Ðông Hồ về tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà không ít du khách, những người trong lĩnh vực hội họa, mỹ thuật của nước ngoài cũng đến để nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ.
Có thể nói giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1944 là thời cực thịnh của làng tranh, với 17 dòng họ trong làng đều tham gia làm tranh. Qua những năm kháng chiến chống Pháp, do chiến tranh tàn phá khốc liệt nên nghề làm tranh cũng tạm bị gián đoạn. Đến khi hòa bình lập lại ở miền Bắc nhất là khi đất nước thống nhất thì làng tranh mới được khôi phục. Đáng tiếc là qua mấy chục năm đổi mới theo nền kinh tế thị trường và với sự tác động của các trào lưu nghệ thuật phương Tây, nhận thức và xu hướng xã hội cũng có sự thay đổi đẩy dòng tranh Đông Hồ đối mặt với sự tồn vong của chính mình.
Hàng năm, từ tháng Ba đến tháng Bảy cả làng làm hàng mã, sang tháng Tám đến tháng Chạp lại tất bật mùa tranh Tết, khắp làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp. Đặc biệt làng Hồ có hội vào rằm tháng Ba âm lịch, trong ngày hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ… Du lịch Bắc Ninh, được ngắm những bức tranh Đông Gồ,thấy đời sống tinh thần trở nên đa dạng và hấp dẫn đến lạ.
Tags: phuong tien giao thong, diem du lich bac ninh, khach san bac ninh, dac san bac ninh